Danh sách Blog của Tôi

Tổng số lượt xem trang

Mr Nam : 093 229 3806. Được tạo bởi Blogger.

Tìm hiểu về hợp đồng trên thị trường forex

Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2011

Hợp đồng giao ngay (spot contract ):
là loại hợp đồng mà giá cả gọi là giá giao ngay (giá cả của hàng hóa được mua bán trên thịtrường ngay tại thời điểm này), nghĩa là việc giao hàng và thanh toán chỉ có thể diễn ra trong vòng 1 hay 2 ngày (làm việc) kể từkhi bản hợp đồng được ký kết.Nghiệp vụ này thực hiện trên cơ sở giá giao ngay, tức là giá được xác định và có giá trị tại thời điểm giao dịch. Chênh lệch giámua và giá bán của một hàng hóa dùng để bù đắp chi phí giao dịch và đạt một khoản lợi nhuận hợp lý, nên nó cao hay thấp tùythuộc vào phạm vi giao dịch hẹp hay rộng và mức độ biến động giá trị của hàng hóa đó trên thị trường. Để có thể so sánh với cácloại chi phí giao dịch khác, chênh lệch giá bán và giá mua thường được xác định theo tỷ lệ phần trăm qua công thức sau:Chênh lệch (%) = (giá bán – giá mua) * 100 / giá báno
Hợp đồng kỳ hạn (HĐKH – forward contract):
là loại hợp đồng mà giá cả gọi là giá kỳ hạn, nghĩa là việc giao hàng và thanh toánsẽ là một ngày nào đó được chỉ ra trong tương lai, kể từ khi bản hợp đồng được ký kết (1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng,…).Giá kỳ hạn được tính dựa trên mức giá giao ngay và một số thông số khác phỏng đoán về mức tăng giảm của giá cả hàng hóanày tính cho đến thời điểm hàng sẽ thực sự được giao nhận. Với phương thức giao dịch này, người mua hàng phải có đặt cọc(ký qũy) hoặc thế chấp một khoản tài sản nhất định để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng. Tiền ký qũy trong phạm vi tối thiểutheo thỏa thuận và không được hưởng lãi nhưng người mua có thể được hưởng phần lợi tức (trong trường hợp thế chấp tài sảntài chính) phát sinh từ tài sản thế chấp. Với tư cách là công cụ phòng chống rủi ro, HĐKH được sử dụng để cố định khoản thunhập hay chi trả theo một mức giá cố định đã biết trước, bất chấp sự biến động của giá trên thị trường.o
Hợp đồng giao sau (HĐGS – futures contract):
là loại hợp đồng có sẵn những tiêu chuẩn về số lượng, phẩm cấp hàng, chủngloại mặt hàng, điều kiện vận chuyển và giao nhận hàng,… tất cả đều được sở giao dịch tiêu chuẩn hóa, vấn đề duy nhất phảithỏa thuận là giá cả.Giá cả sau khi được quyết định tại phiên giao dịch, gọi là giá giao sau. Đó là mức giá được tính toán gần giống như giá giao trongtương lai. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của loại hợp đồng này, hai bên mua bán không hề có thêm bất kỳ thỏa thuận nào kháctrừ giá cả. Nên hàng hóa mua bán theo loại hợp đồng thường được qui định giao nhận hàng ở một vài thời điểm nhất định trongnăm mà thôi, khi đó giá giao sau sẽ là giá giao kỳ hạn với thời điểm kỳ hạn chính là mốc đã định sẵn ở trên.Thể thức này mới được sử dụng phổ biến từ những năm 60 – 70 thế kỷ XIX trên thị trường hàng hóa và những năm 70 – 80 củathế kỷ XX trên thị trường tiền tệ. Từ năm 2001, hầu hết các sàn giao dịch điện tử quốc tế đều thống nhất các qui chuẩn chungcủa hợp đồng này, tuỳ theo hàng hóa cơ sở mua bán (gạo, café, caosu, … vàng, bạc, platin,… USD, …) mà sẽ có những đặc tảchi tiết hàng hóa riêng. Đây là công cụ chính cung cấp cho những nhà đầu cơ (speculator) một phương tiện kinh doanh và nhữngngười ngại rủi ro (hedger) một phương tiện phòng chống rủi ro

So sánh 3 dạng hợp đồng trên:
- Tính thanh khoản: dù HĐKH đã được đánh giá là rất linh hoạt về phương diện thời hạn và số tiền giao dịch so với hợp đồnggiao ngay, nhưng nó lại hạn chế về mặt thanh khoản bởi vì các bên tham gia hợp đồng không thể bán hợp đồng khi thấy có lờicũng không thể xóa bỏ hợp đồng khi thấy bất lợi. Trong khi đó, HĐGS có tính thanh khoản cao nhất bởi vì sở giao dịch sẵn sàngđứng ra “đảo hợp đồng” bất cứ khi nào có một bên yêu cầu. Khi đảo hợp đồng, thì hợp đồng cũ bị xoá bỏ và hai bên thanh toáncho nhau phần chênh lệch giá trị tại thời điểm đảo hợp đồng. Điều này khiến cho hầu hết HĐGS đều tất toán thông qua đảo hợpđồng, chỉ khoảng 1,5% HĐGS tại các sàn giao dịch được thực hiện thông qua chuyển giao hàng vào ngày đến hạn theo hợpđồng.- HĐGS sẵn sàng cung cấp những hợp đồng có giá trị nhỏ và cho phép các bên tham gia có thể sang nhượng lại hợp đồng ở bấtkỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng hết hạn, vì thế nó dễ dàng thu hút nhiều người tham gia. Ngược lại, HĐGS chỉ cung cấp giớihạn cho một số hàng hóa và một vài ngày chuyển giao hàng trong năm mà thôi. Kế đến nó là hợp đồng bắt buộc phải thực hiệnkhi đến hạn chứ không cho phép người ta được quyền tùy chọn.- Khả năng phòng chống rủi ro: HĐGS thực sự là một công cụ đầu cơ, nhưng khả năng phòng chống rủi ro của nó còn hạn chế,do chỉ cung cấp giới hạn cho một vài hàng hóa, và một vài ngày thanh toán trong năm.
§ Các dạng hợp đồng quyền chọn
(options contract)
Mặc dù hợp đồng kỳ hạn và HĐGS có thể sử dụng để phòng ngừa rủi ro, nhưng vì tất cả những hợp đồng bắt buộc thực hiện khiđến hạn nên nó cũng đánh mất đi cơ hội kinh doanh, nếu như sự biến động giá thuận lợi. Đây là nhược điểm lớn nhất của hợpđồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau. Để khắc phục nhược điểm này phát sinh một dạng hợp đồng mới là hợp đồng quyền lựachọn mua hay bán hàng hóa hay không khi đến hạn hợp đồng (gọi tắt là hợp đồng quyền chọn – HĐQC).HĐQC được đưa sử dụng vào những năm cuối của thập niên 70 thế kỷ XIX. Tuy nhiên thị trường này phát triển nhanh chóng vàđược vận dụng vào các giao dịch trên thị trường tài chánh, ngày một phổ biến hơn vào những năm cuối thập niên 70 của thế kỷXX. Bước sang thế kỷ XXI, thị trường các HĐQC
(options market)
là một trong những phân khúc thị trường có tốc độ phát triểnnhanh và chiếm doanh số giao dịch hàng ngày lớn nhất trên thế giới. Nói chung, quyền chọn (options) là một hoạt động giao dịch

mà cho phép người mua nó có quyền mua (call option) hay quyền bán (put option) ở một mức giá và thời hạn được xác địnhtrước, nhưng không bắt buộc thực hiện quyền này.Hợp đồng lựa chọn kiểu 1 (American Options): cho phép người mua nó có quyền thực hiện hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nàotrước khi hợp đồng hết hạn.Hợp đồng lựa chọn kiểu 2 (European Options): chỉ cho phép người mua nó có quyền thực hiện hợp đồng khi đến hạn hợp đồng.Giá trị của quyền chọn tùy thuộc vào giá cả thực hiện (exercise or strike price) và sự biến động của giá cả hàng hóa trên thịtrường. Giá cả biến động có thể làm cho quyền chọn trở nên sinh lợi (in-the-money), hòa vốn (at-the-money) hoặc lỗ vốn (out-of-the-money).Ví dụ, mua một call option European tháng 12/1998 cho 1.000 kg gạo với giá thực hiện là 2.300 đồng/kg trị giá 5.000 đồng. Nếuđến tháng 12/1998 mà giá gạo giao ngay trên thị trường là 2.400 đồng/kg tức là bạn có lãi, hoặc ngược lại giá gạo chỉ là 2.200đồng/kg thì bạn bị lỗ.Có rất nhiều dạng options, nhưng sử dụng phổ biến có thể là dạng futures options – quyền chọn lựa trong tương lai. Một cáchbiến thể của options khác rất phổ biến là warrant – quyền tiên mãi, ký hóa phiếu.o
Futures Options:
là một dạng mua bán option dựa trên tiêu chuẩn của dạng hợp đồng giao sau, mua bán option với tiêu chuẩngiao hàng theo hợp đồng giao sau. Khi được thực hiện quyền của mình, người cầm giữ nó nhận một vị trí ngắn hạn hoặc dài hạntrong hợp đồng giao sau mua bán hàng hóa nào đó mà hiệu lực chấm dứt một tuần sau kỳ hạn ghi trên trên hợp đồng. Một khihợp đồng option được thực hiện và hợp đồng giao sau đã giao hàng, người cầm giữ có thể bán hợp đồng cho sở giao dịch ởmức giá mà có thể mang lại cho người cầm giữ một mức lãi chính xác như anh ta đã tin tưởng khi sử dụng thẳng option.Việc giới thiệu dạng thức hợp đồng này là một bước quan trọng cung cấp cho những nhà kinh doanh và những nhà đầu tư thêmmột công cụ rất khác biệt để giảm những rủi ro đi kèm trong thương mại và đầu tư quốc tế.o
Warrant:
Có hai dạng, một dạng đầu tiên gọi là ký hóa phiếu, xuất hiện từ rất lâu trên thị trường hàng, sau này khi thị trường hàng hóa đivào tập trung thì phát triển thêm dạng một dạng khác gọi là quyền tiên mãi.
Ký hóa phiếu:
là một chứng thư xác nhận người chủ sở hữu chứng thư có hàng gửi tại kho – một nơi lưu trữ uy tín nào đó – cóxác nhận rõ trên chứng thư. Người chủ sở hữu của chứng thư này có quyền bán chứng thư này cho bất kỳ một người nào cónhu cầu muốn mua lượng hàng đang gửi tại kho hàng nói trên, với số lượng, chất lượng, qui mẫu,… mà tờ ký hóa phiếu đặc tả.Nghĩa là, mọi thương nhân khi gửi hàng vào kho, được nhà kho giao cho một ký hóa phiếu, thì người thương nhân này có toànquyền mua bán ký hóa. Và chứng thư này sẽ luân chuyển trao tay qua nhiều người cho đến khi có người chủ thực sự cần lấylượng hàng đó ra khỏi kho hàng, nhà chủ kho sẽ giao hàng cho ai đưa ra đúng tờ chứng thư mà do chính kho của họ phát hành.
Quyền tiên mãi:
cũng là một chứng thư mà người nắm giữ chứng thư này sẽ được quyền ưu tiên mua hàng – quyền tiên mãi –tại thời điểm chứng thư này có giá trị thực hiện (hoặc vẫn còn giá trị thực hiện) bất kể điều kiện hàng hóa khan hiếm hay giá cảbiến động như thế nào. Quyền tiên mãi được sử dụng rất rộng rãi trên thị trường đối với các mặt hàng dạng khai khoáng nhưvàng, bạc, bạch kim,… và đôi khi được sử dụng kèm với việc phát hành các loại trái phiếu hàng hóa như một điều kiện ưu tiêncho người nắm giữ trái phiếu được mua hàng. Sau này sự vận dụng cơ chế giao dịch trên thị trường cổ phiếu rất phổ biến

Các mẫu hình nến

Các mẫu hình nến 

A. Trường hợp đảo chiều TĂNG
1. Hammer
  • Mẫu hình:
- Mẫu hình cây búa được hình thành trong chu kỳ giảm giá.
- Mẫu hình giống như cây búa có bóng dưới rất dài, thân nhỏ và bóng trên ngắn hoặc không có.
- Màu của thân nến không quan trọng có thể trắng hoặc đen. Trường hợp thân trắng và bóng nến dài thì khả năng đảo chiều càng cao.
  • Ý nghĩa:
- Tín hiệu cây búa cảnh báo chu kỳ giảm giá đã được chặn lại.
- Trong phiên giao dịch do chịu ảnh hưởng giảm của các phiên giao dịch trước đó, lượng bán tiếp tục tung ra thị trường làm giá có lúc rơi xuống rất thấp.
- Cuối phiên giao dịch bên mua đã thắng thế, giành lại vị thế kiểm soát thị trường. Áp lực bán ra giảm dần, do đó đóng cửa phiên giao dịch giá tăng lên đáng kể và đóng cửa ở vùng trên cây nến hình thành cán búa (bóng dưới rất dài). Điều này cho thấy sự giảm giá đã được chặn lại.

2. Bullish Belt-Hold

  • Mẫu hình:
- Bullish Belt-Hold được hình thành trong chu kỳ giảm giá.
- Mẫu hình là một cây nến thân dài. Bóng trên và dưới rất ngắn hoặc không có.
  • Ý nghĩa:
- Bullish Belt-Hold báo hiệu xu hướng giảm giá đã ngưng lại. Thân nến càng dài khả năng đảo chiều càng cao.
- Bullish Belt-Hold xuất hiện với giá mở cửa bằng với giá rất thấp do tâm lý thị trường vẫn còn bi quan trong một chu kỳ giảm. Nhưng sau đó lực cầu mạnh mẽ giá được phục hồi và đóng cửa tại mức gần với giá cao nhất trong phiên. Điều này mang ý nghĩa rằng xu hướng tích cực được duy trì đến hết phiên. Sức cầu áp đảo sức cung thể hiện bên mua đã khống chế được tình huống.

3. Dragon Fly Doji

  • Mẫu hình:
- Dragon Fly Doji thiết lập torng chu kỳ giảm giá.
- Mẫu hình này gồm một cây nến với giá mở cửa bằng với giá đóng cửa tại mức cao nhất và có bóng dưới rất dài.
  • Ý nghĩa:
- Mẫu hình Dragon Fly Doji báo hiệu xu hướng giảm đã chững lại do cung và cầu tương đối ngang nhau.
- Mở cửa phiên giao dịch giá được giao dịch tại mức giá cao nhất trong ngày. Tuy nhiên lượng cung tiếp tục áp đảo làm giá rơi tới mức thấp nhất trong phiên.
- Sau đó người mua hoạt động tích cực hơn và đưa giá đóng cửa về bằng với giá mở cửa, cho thấy bên mua đã giành lại vi thế kiểm soát thị trường ở cuối phiên giao dịch. Điều này cho thấy xu hướng giảm đã bị chặn lại.

4. Inverted Hammer

  • Mẫu hình:
- Mẫu hình cây búa ngược được thiết lập trong chu kỳ giảm giá.
- Mẫu hình giống như cây búa ngược có bóng trên rất dài và bóng dưới rất ngắn hoặc không có.
- Màu của thân nến không quan trọng.
  • Ý nghĩa:
- Mẫu hình cây búa ngược cho thấy xu hướng giảm giá có khả năng bị chặn lại. Tuy nhiên cần có sự tăng giá của phiên giao dịch kế tiếp để khẳng định sự đảo chiều.
- Tiếp nối xu hướng giảm giá, giá mở cửa ở mức thấp.Nhưng sau đ1o lực mua được cải thiện đáng kể và đẩu giá lê mức cao nhất trong phiên. Tuy nhiên lực cầu không đủ mạnh để duy trì giá này và bên bán đã đẩy giá dóng cửa xuống vùng dưới của nến.
- Mặc dù giá đóng cửa ở mức thấp trong phiên nhưng sự biến động giá cho thấy bên cầu đã có lần có khả năng đẩy giá lên cao thể hiện xu hướng giảm giá có thể bị chặn lại. Tuy nhiên cần có tín hiệu tăng giá của phiên tiếp theo để khẳng định chu kỳ giảm giá đã chấm dứt.


5. Southern Doji
  • Mẫu hình:
- Southern Doji được thiết lập trong chu kỳ giảm giá.
- Giá mở cửa bằng giá đóng cửa hoặc mức chênh lệch này rất thấp.
  • Ý nghĩa:
- Trong một chu kỳ giảm giá, Southern Doji đưa tín hiệu xu hướng giảm do cung cầu đã cân bằng.
- Sau thời gian giảm giá lực cầu đã quay trở lại nên ại đây có sự giằng co giữa bên mua và bên bán. Do đó hình thành nên cây nến có giá mở cửa bằng với giá đóng cửa thể hiện sự bế tắc chưa phân thắng bại của hai bên.
- Doji cho dấu hiện tạm ngừng của xu hướng giảm và chớ các tính hiệu phản ứng tiếp theo của thị trường.

6. Bullish Engufing

  • Mẫu hình:
- Bullish Engulfing được thiết lập trong chu kỳ giảm giá.
- Bao gồm 2 cây nến đối lập về màu sắc. Cây nến đầu tiên có thân màu đen, cây nến thứ 2 có thân dài màu trắng và thân nến "bao trùm" thân nến thứ nhất. Cây nến thứ 2 có bóng trên và bóng dưới ngắn hoặc không có.
  • Ý nghĩa:
- Mẫu hình Bullish Engulfing cho tín hiệu xu hướng giảm giá đã chấm dứt.
- Cây nến thứ nhất có thân dài màu đen thể hiện xu hướng giảm giá vẫn tiếp diễn như các phiên trước. Trong ngày thứ hai, đầu phiên giá vẫn ở mức thấp sau đó lực cầu đủ mạn áp đảo lượng cung đẩy giá lên rất cao và đóng cửa tại mức gần với giá cao nhấn trong phiên giao dịch hình thành cây nến trắng có thân rất dài.
- Thân nến tắng bao trùm thân nến đen c1 ý nghĩa cường độ tăng giá mạnh hơn c7o72ng độ giảm giá của phiên trước đó. Đây là tín hiệu phục hồi trong một chu kỳ giảm giá.
7. Piercing Pattern
8. Bullish Harami


9. Morning Star

B Trường hợp đảo chiều GIẢM
1. Hanging Man

2. Bearish Belt-Hold



3. Gravestone Doji


4. Shooting Star


5. Northern Doji


6. Bearish Engufing
7. Dark Cloud Cover

8. Bearish Harami
9. Evening Star

Tin Trong Nước 27 - 5

Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

Thống đốc Nguyễn Văn Giàu: 'Không áp trần lãi suất cho vay'

 

Tính đến 23/5, tín dụng cho nền kinh tế vẫn tăng ròng 135,8 nghìn tỷ đồng, tương đương mức tăng 6,2% so với cuối năm ngoái, cao gấp 1,2 lần tăng trưởng GDP. 


Thị trường những ngày gần đây lan truyền thông tin NHNN có thể khống chế lãi suất cho vay tiền đồng ở mức 18-19% và nới trần lãi suất huy động lên trên 14%. Thực hư của các phương án này là như thế nào, thưa Thống đốc?

Đã có vài ý kiến đề cập tới chuyện này, nhưng tôi khẳng định đây không phải là chủ trương của NHNN và NHNN cũng chưa đưa ra bất cứ điều chỉnh nào về lãi suất cho vay cũng như huy động tiền đồng.

Về lý thuyết, khống chế lãi suất cho vay có vẻ tốt, tưởng như sẽ khiến xã hội yên tâm. Nhưng hệ lụy của nó rất lớn. Cầu tín dụng đang cao hơn so với cung, nếu áp trần sẽ không khả thi và nhiều rủi ro. Điều tôi sợ nhất là sự biến tướng lách trần, dẫn tới tiêu cực trong cán bộ. Tôi cho anh vay 18% rồi anh biếu tôi 3-4%, phần tiền này đâu có chảy vào NH. Khi người ta mua chuộc nhau có thể dẫn tới chuyện châm chước cho nhau, nới lỏng điều kiện tín dụng. Hậu quả là không chỉ NH đó rủi ro, mà còn gây tổn thương cho cả hệ thống.

Tôi chưa bao giờ phân công một ai trong NHNN nói về định hướng lãi suất cả. Nếu có ai đó phát ngôn thì đó cũng không phải là chủ trương của NHNN và họ phải tự chịu trách nhiệm cá nhân khi làm tổn thương các quyết sách của Đảng Nhà nước và điều hành của Chính phủ.

Theo ông tại sao thị trường lại đồn thổi như vậy?
Quả thật trong những ngày tin đồn lan đi, thị trường liên NH có hơi lộn xộn, lãi suất dâng cao, tỷ giá của các NH cũng tăng lên. Nhưng có điều lạ là thời gian đó thanh khoản NH không có vấn đề gì, NHNN lại đang bơm tiền đồng ra với một khối lượng lớn, mua vào rất nhiều đôla, có ngày mua trên 200 triệu USD. Mấy hôm nay tiền bơm ra rất ít, ở mức thấp nhất vài ba tháng trở lại đây, thị trường lại ổn định, tỷ giá xuống thấp cho dù Tổng cục Thống kê đã công bố nhập siêu tăng cao. 

Những ngày tin đồn lan đi, NHNN lại đang bơm tiền đồng ra với một khối lượng lớn, mua vào rất nhiều đôla, có ngày mua trên 200 triệu USD. Mấy hôm nay bơm tiền ra rất ít, thấp nhất vài 3 tháng trở lại đây, thị trường lại ổn định.
Qua nhiều lần chiêm nghiệm, tôi tự hỏi liệu có ý đồ chính trị đăng sau những tin đồn đó hay không. Không hiểu tại sao người ta lại muốn tung hứng tâm lý cho thị trường, người ta cứ nói áp trần lãi suất cho vay rồi lại phân tích không nên làm, mà thực tế NHNN có động thái đó đâu, đã có tuyên bố chính thức gì đâu.

Nhưng nhiều doanh nghiệp phàn nàn không thể tiếp cận vốn NH, lãi suất quá cao và có thể khiến lạm phát cao hơn nữa. Ông nghĩ sao về điều này?

Tính đến 23/5, tín dụng cho nền kinh tế vẫn tăng ròng 135,8 nghìn tỷ đồng, tương đương mức tăng 6,2% so với cuối năm ngoái, cao gấp 1,2 lần tăng trưởng GDP. 
Một số thông tin gần đây cho rằng vài chục phần trăm doanh nghiệp không tiếp cận được vốn NH. Tôi không đồng ý với điều đó. Với những doanh nghiệp mới thành lập, có thể chưa tiếp cận được vốn ngay. Nhưng những doanh nghiệp cũ thì không có chuyện đó. Vốn đã rót cho anh từ trước rồi, nay vẫn tăng thêm 6,2%. Nếu anh không tiếp cận được và phải trả lại NH vì lãi suất cao quá thì dư nợ tín dụng phải giảm xuống chứ làm sao tăng được.

Mong muốn của Chính phủ là kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, qua được giai đoạn khó khăn này, lãi suất sẽ giảm xuống. Mọi người cần chia sẻ khó khăn, chứ giờ này yêu cầu tăng dư nợ cho vay hơn nữa làm sao thực hiện được. Khi lãi suất cao, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ không đạt như mong muốn nhưng cũng không đến mức phá sản hàng loạt, đóng cửa hàng loạt như người ta nói. Lãi suất là một chi phí tài chính quan trọng, nhưng không phải là thứ quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.

Bản thân doanh nghiệp trong bối cảnh lãi suất cao thế này cũng phải đề ra giải pháp vượt qua khó khăn, và tôi nghĩ phần nhiều sẽ chấp nhận giảm lợi nhuận một chút để hạn chế tăng giá bán, giữ chân khách hàng. Nếu tăng giá cao quá, không bán được hàng sẽ phải giảm xuống. Vì thế nói lãi suất tăng cao sẽ khiến lạm phát tăng cao cũng không đúng lắm.
Các NH cho rằng lãi suất cho vay tăng cao thời gian qua chủ yếu do khó khăn về nguồn vốn, một số đơn vị đã phải đẩy lãi suất huy động vượt trần cho phép. Vậy tại sao NHNN không nới trần lãi suất huy động lên trên 14% để gỡ khó cho họ?

Cầu tín dụng đang cao hơn so với cung, nếu áp trần sẽ không khả thi và nhiều rủi ro. Điều tôi sợ nhất là sự biến tướng lách trần, dẫn tới tiêu cực trong cán bộ.
Còn trần huy động: Điều kiện vĩ mô đang tốt lên, lạm phát đang giảm thì tại sao phải nâng trần lãi suất huy động? 
Điều chỉnh lãi suất phải nhìn theo tín hiệu kinh tế vĩ mô. Thực ra cuối tháng 4, NHNN có cân nhắc khi thấy giá thế giới biến động. Nhưng nay giá đang giảm dần, các yếu tố địa chính trị trên thế giới cũng ổn định, khó có thể đẩy giá lên cao hơn nữa. Điều kiện vĩ mô đang tốt lên, lạm phát đang giảm thì tại sao phải nâng trần lãi suất huy động? Lạm phát cả năm liệu có lên tới 18% hay không mà đề nghị đẩy lãi suất huy động lên 18%. Cũng không nên đòi hỏi lãi suất thực dương vào lúc này, mà chúng ta chỉ hướng tới mục tiêu đó thôi. Khi thị trường kỳ vọng chính sách tốt lên, lạm phát giảm xuống, những ai đề nghị tăng lãi suất cần xem lại trách nhiệm của họ với xã hội, với đất nước.

Trong điều kiện bình thường, các NH được thỏa thuận lãi suất, nhưng khi có vấn đề, luật cho phép NHNN can thiệp vào lãi suất mà NH ấn định cho khách. NH nào không chấp hành yêu cầu đó sẽ bị xử phạt. Tại Hà Nội đã có một trường hợp bị phát hiện và xử phạt. TP HCM cũng đang xem xét một vụ.

Vậy tại sao NHNN không kiểm soát lãi suất trên thị trường liên NH, nơi các NH cho nhau vay với lãi suất còn cao hơn cả huy động từ dân cư? 
Trong nền kinh tế thị trường không phải cái gì cũng khống chế theo ý muốn chủ quan được. Khống chế càng lâu sẽ càng méo mó. 

Có người đã đề nghị áp trần với cả 3 loại lãi suất, lãi suất cho vay, huy động và trên thị trường liên NH. Nhưng làm vậy sao được. Trong nền kinh tế thị trường không phải cái gì cũng khống chế theo ý muốn chủ quan được. Khống chế càng lâu sẽ càng méo mó. 
Với NH trung ương, khống chế lãi suất liên NH đâu có khó, nếu muốn tôi có thể bơm tiền ra được ngay. Nhưng NHNN không làm thế vì mục tiêu dài hạn của chúng ta là kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Có ý kiến từ Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cho rằng nên tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát lãi suất cho vay. Ông nghĩ sao về giải pháp này?

Các NH đang huy động 14-15% một năm. Dự trữ bắt buộc tức là ông giữ của NH một lượng tiền nhất định mà chỉ trả cho người ta lãi suất 1,2%. Vốn dĩ họ đã phải chịu âm lãi suất cho khoản dự trữ bắt buộc đó rồi, nay muốn họ dự trữ nhiều hơn thì làm sao lãi suất cho vay giảm xuống được? Vì thế người ta mới nói dự trữ bắt buộc là công cụ bạo lực, một cách hành xử bạo lực với thị trường.
“Chính sách tiền tệ đang đúng hướng”
Thưa Thống đốc, hiện đang có lo ngại huy động VND bị giảm, Thống đốc nói gì về vấn đề này?

Tới ngày 23/5 so với cuối năm 2010, tốc độ tăng trưởng huy động vốn toàn hệ thống ngân hàng tăng 1,48%. Trong đó, tốc độ huy động vốn VND giảm 2,75% nhưng tốc độ huy động ngoại tệ tăng 18,84%.

Tuy nhiên, vốn huy động VND giảm nhưng chủ yếu ở khu vực tổ chức kinh tế với số tuyệt đối 156.700 tỷ đồng. Chúng tôi cho rằng, khi lãi suất tăng cao, bao giờ doanh nghiệp cũng rút tiền ra để sản xuất kinh doanh. Điều này là hoàn toàn lành mạnh. Vì nhờ đó, giá thành sản xuất giảm, thanh khoản nền kinh tế được cải thiện và góp phần làm giảm hệ số nở tiền trong nền kinh tế.

Ngược lại, tiền gửi dân cư tăng tới 11,84%; trong đó, VND tăng 107.300 tỷ đồng, tương ứng 11,39% và tiền gửi ngoại tệ tăng 8,63%.

Như thế, chính sách giảm tổng cầu và các giải pháp điều hành về lãi suất, tỷ giá đang có hiệu ứng tích cực, ở chỗ: dòng tiền gửi từ dân cư đang chảy mạnh vào hệ thống ngân hàng. Thử hình dung, nếu số tiền 107.300 tỷ đồng nói trên tiếp tục ngoài hệ thống ngân hàng thì chúng sẽ tấn công và tác động xấu đến giá cả hàng hóa như thế nào.

Còn một số liệu quan trọng nữa là đến ngày 25/5/2011 so với 30/4/2011, tiền gửi ngoại tệ của dân cư giảm 2,89%, điều đó cho thấy một bộ phận lớn dân chúng đã bán mạnh ngoại tệ cho ngân hàng.
Tóm lại, tiền gửi tổ chức kinh tế giảm nhưng lại tăng thanh khoản cho nền kinh tế, trong khi tiền gửi dân cư tăng, điều đó cho thấy diễn biến thị trường đã và đang đi đúng ý đồ điều hành của Chính phủ.

Còn về tín dụng thì sao, thưa Thống đốc?
Cũng so với cuối 2010 thì tính đến 23/5/2011, tổng dư nợ tín dụng tăng 6,2%. Trong đó, VND tăng 2,59%, tín dụng ngoại tệ tăng 18,9%. Khối lượng tín dụng tăng ròng cho nền kinh tế đạt 135.800 tỷ đồng, sau gần 5 tháng, mức tăng này đạt khoảng 33% so với dự kiến khối lượng tín dụng cả năm nay. Mức tăng này hoàn toàn an toàn và nằm trong tầm kiểm soát.

Có một vấn đề ở đây, hẳn mọi người sẽ phân vân rằng: huy động VND giảm 2,75% thì lấy đâu ra tiền để tín dụng VND tăng 2,59%. Thực ra, nguồn vốn của ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào huy động thị trường 1, họ còn có nhiều kênh vốn khác nên tín dụng vẫn tăng cao hơn huy động là điều bình thường.

Tôi thấy mừng vì Chính phủ kiên quyết đi theo Nghị quyết 11. Thủ tướng có nói với tôi rằng, nếu ngân hàng nào vượt tăng trưởng tín dụng 20% thì phải xử lý ngay. Chúng tôi đang làm và chờ tổng hợp để giải quyết cùng một lúc. Hiện có 14 ngân hàng vượt trần sẽ bị xử lý.

Nhưng mức tăng nói trên có dồn về cho khu vực sản xuất như mong muốn của Chính phủ hay không?

Theo Nghị quyết 11 của Chính phủ thì phải tập trung tín dụng cho khu vực sản xuất, đặc biệt là cho vay nông nghiệp - nông thôn và xuất khẩu. Hiện tại, tăng trưởng tín dụng khu vực này đang đạt 22,2%, so với mức tăng chung thì cao hơn 3,5 lần.

Trong khi đó, xét về cơ cấu tín dụng thì tỷ trọng phi sản xuất hiện giảm được 1,92% và so với mức 18,87% cuối 2010, cơ cấu tín dụng phi sản xuất hiện nay là 16,95%. Tôi nghĩ, từ nay đến cuối 2011, toàn ngành có thể đưa tỷ trọng tín dụng phi sản xuất về mục tiêu 16% như mong muốn của Chính phủ.

Tôi cũng muốn nói thêm, tới ngày 24/5/2011, có một số tổ chức tín dụng vẫn để tỷ trọng dư nợ phi sản xuất/tổng dư nợ còn cao, chẳng hạn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Tây 24%, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thương tín 26%. Tôi đã có chỉ đạo thanh tra hai ngân hàng này.

Ngoài ra, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Á cũng có dư nợ tín dụng phi sản xuất là 20%. Như vậy, 3 ngân hàng này chưa thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 11 của Chính phủ.

Riêng một số ngân hàng nước ngoài có tỷ trọng tín dụng phi sản xuất cao có đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép vượt chỉ tiêu với lý do là quy mô nhỏ, mức tăng của họ không ảnh hưởng đến thị trường nhưng Ngân hàng Nhà nước kiên quyết không đồng ý. Bởi lẽ, đã ban hành chính sách thì tất cả phải thực hiện như nhau, không phân biệt. Quy mô lớn thì hoạt động lớn, quy mô nhỏ thì hoạt động nhỏ, không phải vì nhỏ mà có thể vượt quá tỷ lệ Ngân hàng Nhà nước cho phép.

Hơn nữa, trong điều kiện Nhà nước đã có những quy định áp dụng chung cho cả hệ thống thì tất cả phải nhất quán thực hiện, không có cá biệt. Rất có thể, khi thực hiện nghiêm túc thì sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận các ngân hàng nhưng trong điều kiện kinh tế vĩ mô còn khó khăn, mọi thành phần trong nền kinh tế phải chung vai chia sẻ.

Hiện tại, nhiều tổ chức tín dụng xé rào lãi suất huy động 14%, Ngân hàng Nhà nước có ý kiến gì?

Khi vi phạm thì phải xử lý và kỷ luật nghiêm, Ngân hàng Nhà nước không thể nương nhẹ với biểu hiện này. Những chi nhánh ngân hàng thương mại nào vi phạm nếu Ngân hàng Nhà nước phát hiện sẽ kỷ luật giám đốc chi nhánh, thậm chí xem xét tới việc dừng hoạt động chi nhánh đó. Khi đất nước khó khăn thì nên giảm bớt lợi nhuận, thậm chí phải “đồng cam cộng khổ”, đừng vin vào cớ lạm phát cao để làm loạn thị trường và gây ảnh hưởng xấu tới dư luận xã hội.

Tới đây, Ngân hàng Nhà nước sẽ hợp tác chặt chẽ với cơ quan bảo vệ pháp luật và báo chí để phát hiện, điều tra và xử lý kịp thời những biểu hiện vi phạm nói trên.

Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang tập trung xử lý một vụ việc phi phạm xé rào lãi suất tại Tp.HCM, khi nào xong, chúng tôi sẽ công bố công khai.

Hiện xôn xao thông tin Ngân hàng Nhà nước sẽ khống chế trần lãi suất cho vay, Thống đốc nói gì về vấn đề này?

Cũng có ý kiến về vấn đề này nhưng đã có chủ trương, chính sách gì đâu? Đừng nghĩ quy định trần lãi suất cho vay thì dễ quản lý nhờ vào “tố cáo” của khách hàng! Thực tiễn cuộc sống không đơn giản như vậy. Bởi lẽ, khi cung tín dụng dư thừa thì có thể làm như thế nhưng cung đang thiếu thì làm thế sao được? Hơn nữa, tố cáo được một ông thì cả trăm ông không được vay đâu. Thế rồi ngân hàng không cho doanh nghiệp vay mà mang tiền đi làm đủ chuyện: bán vốn cho nhau, mua bán ngoại tệ, mua giấy tờ có giá và cuối cùng thì tín dụng không đi vào nền kinh tế, hóa ra lợi bất cập hại.

Mới đây, thị trường xôn xao thông tin Ngân hàng Nhà nước mua 1 tỷ USD, cung ra thị trường khoảng 20 nghìn tỷ đồng vì thế, có thể Ngân hàng Nhà nước sẽ phát hành tín phiếu bắt buộc để hút số tiền này về. Thống đốc giải thích như thế nào?

Ngân hàng Nhà nước mua bán ngoại tệ như thế nào, giá cả, số lượng ra sao là nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước. Không phải Ngân hàng Nhà nước làm cái gì là cứ công bố tất thảy được.

Tuy nhiên, với những gì đang diễn ra trên thị trường ngoại tệ, đã cho thấy chúng tôi đang điều hành chính sách ngoại hối đúng hướng và điều này nằm trong cả gói chính sách quản lý từ quản lý thị trường vàng, ngoại tệ đến lãi suất. Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước không có chủ trương phát hành tín phiếu bắt buộc.
“NHNN không có chủ trương phát hành tín phiếu bắt buộc”
Những chi nhánh NHTM nào vi phạm vượt trần huy động nếu NHNN phát hiện sẽ kỷ luật giám đốc chi nhánh, thậm chí xem xét tới việc dừng hoạt động chi nhánh đó. 

Trước những bàn luận về trần lãi suất, về hoạt động mua vào ngoại tệ, lo ngại khi huy động vốn VND sụt giảm…, chiều 26/5, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chính thức có ý kiến với VnEconomy.

Thưa Thống đốc, hiện đang có lo ngại huy động VND bị giảm, Thống đốc nói gì về vấn đề này?

Tới ngày 23/5 so với cuối năm 2010, tốc độ tăng trưởng huy động vốn toàn hệ thống ngân hàng tăng 1,48%. Trong đó, tốc độ huy động vốn VND giảm 2,75% nhưng tốc độ huy động ngoại tệ tăng 18,84%.

Tuy nhiên, vốn huy động VND giảm nhưng chủ yếu ở khu vực tổ chức kinh tế với số tuyệt đối 156.700 tỷ đồng. Chúng tôi cho rằng, khi lãi suất tăng cao, bao giờ doanh nghiệp cũng rút tiền ra để sản xuất kinh doanh. Điều này là hoàn toàn lành mạnh. Vì nhờ đó, giá thành sản xuất giảm, thanh khoản nền kinh tế được cải thiện và góp phần làm giảm hệ số nở tiền trong nền kinh tế. 

Tiền gửi tổ chức kinh tế giảm nhưng lại tăng thanh khoản cho nền kinh tế, trong khi tiền gửi dân cư tăng, điều đó cho thấy diễn biến thị trường đã và đang đi đúng ý đồ điều hành của Chính phủ.
Ngược lại, tiền gửi dân cư tăng tới 11,84%; trong đó, VND tăng 107.300 tỷ đồng, tương ứng 11,39% và tiền gửi ngoại tệ tăng 8,63%.
Như thế, chính sách giảm tổng cầu và các giải pháp điều hành về lãi suất, tỷ giá đang có hiệu ứng tích cực, ở chỗ: dòng tiền gửi từ dân cư đang chảy mạnh vào hệ thống ngân hàng. 

Thử hình dung, nếu số tiền 107.300 tỷ đồng nói trên tiếp tục ngoài hệ thống ngân hàng thì chúng sẽ tấn công và tác động xấu đến giá cả hàng hóa như thế nào.


Còn một số liệu quan trọng nữa là đến ngày 25/5/2011 so với 30/4/2011, tiền gửi ngoại tệ của dân cư giảm 2,89%, điều đó cho thấy một bộ phận lớn dân chúng đã bán mạnh ngoại tệ cho ngân hàng.

Tóm lại, tiền gửi tổ chức kinh tế giảm nhưng lại tăng thanh khoản cho nền kinh tế, trong khi tiền gửi dân cư tăng, điều đó cho thấy diễn biến thị trường đã và đang đi đúng ý đồ điều hành của Chính phủ.

Còn về tín dụng thì sao, thưa Thống đốc?
Cũng so với cuối 2010 thì tính đến 23/5/2011, tổng dư nợ tín dụng tăng 6,2%. Trong đó, VND tăng 2,59%, tín dụng ngoại tệ tăng 18,9%. Khối lượng tín dụng tăng ròng cho nền kinh tế đạt 135.800 tỷ đồng, sau gần 5 tháng, mức tăng này đạt khoảng 33% so với dự kiến khối lượng tín dụng cả năm nay. Mức tăng này hoàn toàn an toàn và nằm trong tầm kiểm soát. 

Khối lượng tín dụng tăng ròng cho nền kinh tế đạt 135.800 tỷ đồng, sau gần 5 tháng, mức tăng này đạt khoảng 33% so với dự kiến khối lượng tín dụng cả năm nay. Mức tăng này hoàn toàn an toàn và nằm trong tầm kiểm soát.
Có một vấn đề ở đây, hẳn mọi người sẽ phân vân rằng: huy động VND giảm 2,75% thì lấy đâu ra tiền để tín dụng VND tăng 2,59%. 
Thực ra, nguồn vốn của ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào huy động thị trường 1, họ còn có nhiều kênh vốn khác nên tín dụng vẫn tăng cao hơn huy động là điều bình thường.


Tôi thấy mừng vì Chính phủ kiên quyết đi theo Nghị quyết 11. Thủ tướng có nói với tôi rằng, nếu ngân hàng nào vượt tăng trưởng tín dụng 20% thì phải xử lý ngay. Chúng tôi đang làm và chờ tổng hợp để giải quyết cùng một lúc. 

Hiện có 14 ngân hàng vượt trần sẽ bị xử lý.

Nhưng mức tăng nói trên có dồn về cho khu vực sản xuất như mong muốn của Chính phủ hay không?
Theo Nghị quyết 11 của Chính phủ thì phải tập trung tín dụng cho khu vực sản xuất, đặc biệt là cho vay nông nghiệp - nông thôn và xuất khẩu. Hiện tại, tăng trưởng tín dụng khu vực này đang đạt 22,2%, so với mức tăng chung thì cao hơn 3,5 lần.

Trong khi đó, xét về cơ cấu tín dụng thì tỷ trọng phi sản xuất hiện giảm được 1,92% và so với mức 18,87% cuối 2010, cơ cấu tín dụng phi sản xuất hiện nay là 16,95%. Tôi nghĩ, từ nay đến cuối 2011, toàn ngành có thể đưa tỷ trọng tín dụng phi sản xuất về mục tiêu 16% như mong muốn của Chính phủ.

Tôi cũng muốn nói thêm, tới ngày 24/5/2011, có một số tổ chức tín dụng vẫn để tỷ trọng dư nợ phi sản xuất/tổng dư nợ còn cao, chẳng hạn: NHTM Cổ phần Phương Tây 24%, NHTM Cổ phần Việt Nam Thương tín 26%. Tôi đã có chỉ đạo thanh tra hai ngân hàng này.
Ngoài ra, NHTM Cổ phần Nam Á cũng có dư nợ tín dụng phi sản xuất là 20%. Như vậy, 3 ngân hàng này chưa thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 11 của Chính phủ. 

Riêng một số ngân hàng nước ngoài có tỷ trọng tín dụng phi sản xuất cao có đề nghị NHNN cho phép vượt chỉ tiêu với lý do là quy mô nhỏ, mức tăng của họ không ảnh hưởng đến thị trường nhưng NHNN kiên quyết không đồng ý.
Riêng một số ngân hàng nước ngoài có tỷ trọng tín dụng phi sản xuất cao có đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép vượt chỉ tiêu với lý do là quy mô nhỏ, mức tăng của họ không ảnh hưởng đến thị trường nhưng Ngân hàng Nhà nước kiên quyết không đồng ý. Bởi lẽ, đã ban hành chính sách thì tất cả phải thực hiện như nhau, không phân biệt. Quy mô lớn thì hoạt động lớn, quy mô nhỏ thì hoạt động nhỏ, không phải vì nhỏ mà có thể vượt quá tỷ lệ Ngân hàng Nhà nước cho phép.

Hơn nữa, trong điều kiện Nhà nước đã có những quy định áp dụng chung cho cả hệ thống thì tất cả phải nhất quán thực hiện, không có cá biệt. Rất có thể, khi thực hiện nghiêm túc thì sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận các ngân hàng nhưng trong điều kiện kinh tế vĩ mô còn khó khăn, mọi thành phần trong nền kinh tế phải chung vai chia sẻ.

Hiện tại, nhiều tổ chức tín dụng xé rào lãi suất huy động 14%, Ngân hàng Nhà nước có ý kiến gì?
Khi vi phạm thì phải xử lý và kỷ luật nghiêm, Ngân hàng Nhà nước không thể nương nhẹ với biểu hiện này. Những chi nhánh ngân hàng thương mại nào vi phạm nếu Ngân hàng Nhà nước phát hiện sẽ kỷ luật giám đốc chi nhánh, thậm chí xem xét tới việc dừng hoạt động chi nhánh đó. 
Khi đất nước khó khăn thì nên giảm bớt lợi nhuận, thậm chí phải “đồng cam cộng khổ”, đừng vin vào cớ lạm phát cao để làm loạn thị trường và gây ảnh hưởng xấu tới dư luận xã hội.

Tới đây, Ngân hàng Nhà nước sẽ hợp tác chặt chẽ với cơ quan bảo vệ pháp luật và báo chí để phát hiện, điều tra và xử lý kịp thời những biểu hiện vi phạm nói trên.

Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang tập trung xử lý một vụ việc phi phạm xé rào lãi suất tại Tp.HCM, khi nào xong, chúng tôi sẽ công bố công khai.

Hiện xôn xao thông tin Ngân hàng Nhà nước sẽ khống chế trần lãi suất cho vay, Thống đốc nói gì về vấn đề này?
Cũng có ý kiến về vấn đề này nhưng đã có chủ trương, chính sách gì đâu? Đừng nghĩ quy định trần lãi suất cho vay thì dễ quản lý nhờ vào “tố cáo” của khách hàng! Thực tiễn cuộc sống không đơn giản như vậy. Bởi lẽ, khi cung tín dụng dư thừa thì có thể làm như thế nhưng cung đang thiếu thì làm thế sao được? Hơn nữa, tố cáo được một ông thì cả trăm ông không được vay đâu. Thế rồi ngân hàng không cho doanh nghiệp vay mà mang tiền đi làm đủ chuyện: bán vốn cho nhau, mua bán ngoại tệ, mua giấy tờ có giá và cuối cùng thì tín dụng không đi vào nền kinh tế, hóa ra lợi bất cập hại.

Mới đây, thị trường xôn xao thông tin Ngân hàng Nhà nước mua 1 tỷ USD, cung ra thị trường khoảng 20 nghìn tỷ đồng vì thế, có thể Ngân hàng Nhà nước sẽ phát hành tín phiếu bắt buộc để hút số tiền này về. Thống đốc giải thích như thế nào?

Ngân hàng Nhà nước mua bán ngoại tệ như thế nào, giá cả, số lượng ra sao là nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước. Không phải Ngân hàng Nhà nước làm cái gì là cứ công bố tất thảy được.

Tuy nhiên, với những gì đang diễn ra trên thị trường ngoại tệ, đã cho thấy chúng tôi đang điều hành chính sách ngoại hối đúng hướng và điều này nằm trong cả gói chính sách quản lý từ quản lý thị trường vàng, ngoại tệ đến lãi suất. Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước không có chủ trương phát hành tín phiếu bắt buộc.
 

Blogger news

Blogroll

Most Reading